Ái luyến
Truyện ngắn của Lý Lan
Tôi quen một người tình cờ trong một đợt sinh hoạt hè hay công tác
hè lúc còn là sinh viên, khoảng 1976-1780. Giai đoạn đó trong đời tôi
có thể tóm tắt trong một từ đói. Nhà bạn này gần cái chùa nhỏ,
thường qua “ăn chùa”. Nên tôi nghe bạn rủ đi “ăn chùa” cũng ráng đạp xe
theo, qua một cái đò, rồi đạp xe quanh co một hồi nữa. Bây giờ tôi
không nhớ chính xác địa chỉ, chỉ nhớ chắc chắn có qua đò, vì lần
đầu tiên đi đò, lóng ngóng với chiếc xe đạp, đứng ngồi gì cũng không
yên, sợ tới chóng mặt ói mữa, người lái đò bực lắm.
Chùa theo như tôi nhớ chỉ là một gian nhà nhỏ ngăn đôi, phiá trước
có bàn thờ Phật ở giữa. Phiá sau hình như là chỗ ở của một ni sư,
tôi không hề vào bên trong nên không biết như thế nào. Phía sau chuà có
một gian nhà nhỏ hơn được che thêm mái thấp hai bên và phần nối với
chùa cũng được che chắn. Tất cả liếp chắn và mái che căn bếp đó
đều bằng lá dừa nước. Lần đầu và tất cả chừng ba bốn lần sau đó,
khi đến chùa tôi chỉ vô gian nhà nhỏ, nơi bà Hai ngủ nghỉ nấu nướng
tiếp khách kể chuyện. Nghe bạn kêu bà Hai tôi kêu theo, nhưng có lẽ
lúc đó bà chừng ba bốn chục tuổi.
Qua chuyện kể của bà thì chồng đi lính chết, bà giao đứa con cho
bà ngoại rồi “đi ở” cho người ta lấy tiền nuôi mẹ nuôi con. Thời đó
chưa hoà bình. Ban đầu bà ở nhà ba
má ni sư gần một năm, rồi được ba má ni sư thuyết phục, tăng lương, cho
ra ở chùa. Bà nói bà đi ở chớ
không phải đi tu. Người tu là một ni sư còn rất trẻ, được cha mẹ cất cho cái chùa nhỏ ở vùng ven đô. Bà
Hai đi ở trong chùa, bình thường không có công việc gì nhiều, trừ khi
cúng giỗ hay lễ tiết gì đó. Cái
lần đầu tôi đến chùa là nhằm ngày cúng, có mấy người đem đến gạo
dầu rau củ tương chao, rồi xúm nhau gọt rửa xào nấu dưới cái chái
lá của gian nhà nhỏ. Tôi góp công bưng ba cái mâm lên chùa đặt trên
các bàn thờ.
Lần đầu, mà có lẽ là lần duy nhứt tôi gặp ni sư chào hỏi, là
khi sư đi ra ngồi đối diện bàn thờ Phật đọc kinh. Đọc xong sư đi vô, tôi cùng mấy
ngươi khác bưng mâm về chái lá chia nhau ăn. Bà Hai luôn có mâm để riêng
cho sư, không phải đồ cúng. Bà Hai là người duy nhứt mỗi ngày năm ba
lần ra vô cái buồng sau của chùa, bưng cơm xách nước, lấy áo quần đem
giặt và đổ bô. Không hiểu sao cha mẹ ni sư xây cái chùa không có cầu
tiêu. Tập quán dân chúng quanh đó là đi cầu cá, giống một cái chuồng
thấp xập xệ ở cuối một cái cầu ván gập ghềnh bắc gie ra ao nuôi cá vồ. Ni sư không thể đi cầu cá.
Ni sư cũng ít khi đi đâu ngoài gian trước và gian sau của cái chùa
nhỏ. Hầu như chỉ ngồi trong chùa đọc kinh sách. Hồi đó tôi mười chín hay hăm mốt tuổi?
Tôi cảm thấy phẫn nộ việc ni sư để bà Hai ngày ngày đổ bô. Đành
rằng bà Hai là người ở được trả lương để làm những công việc đó,
nhưng từ khi hoà bình, bà Hai đã mất liên lạc với cha mẹ ni sư. Chẳng
những không được lãnh lương mà bà Hai còn phải tự xoay sở chi phí để
duy trì sự sống của hai người trong chùa. Tôi nói giải phóng rồi mắc
gì bà còn “đi ở”? Bà nói ở với ni sư quen rồi. Giọng nói nhỏ nhẹ
khiến tôi nhớ tới bà ngoại. Bà bị ông ngoại say rượu đánh hoài,
nhiều lần phải chạy qua nhà hàng xóm tránh mặt. Đến khi dì tôi lấy
chồng giàu, năn nỉ rước bà về thành phố ở, bà lại không nghe. Bà
nói ở với ổng quen rồi. Lia thia quen chậu vợ chồng quen hơi. Thì
cũng đành. Nhưng đó là vợ chồng. Còn bà Hai là người ở không lương.
Tôi thấy thương bà. Nhứt là khi bà dặn đi dặn lại lúc tôi ra về:
Mai em qua ăn cơm xà bần nha. Tại vì tôi thấy lúc lặt rau gọt củ bà
Hai không bỏ đi những đầu thừa đuôi thẹo mà để dành trong một cái rỗ
cũng thuộc loại đáng bỏ đi. Bà giải đáp thắc mắc bằng một nụ cười
tươi hiền hậu tôi không bao giờ quên. Bỏ uổng, để mai làm cơm xà bần.
Đó là món bà thường ăn, gần như mỗi ngày: Sau khi chọn những thứ
tinh khiết nhứt, non tươi nhứt, nấu trong những nồi niêu sạch nhứt,
bày trong mâm món nào ra món nấy để dâng cho ni sư, bà Hai mới mót đồ
còn lại cho vô một chảo xào thành một món xà bần. Bà cười, ôi nụ
cười! Mình nấu mình ăn, nêm nếm quen miệng, ăn ngon lắm. Tôi nói bữa
nào cho ăn thử, bà sốt sắng rủ rê.
Nên tôi đã trở lại, đã ăn rồi ghiền cơm xà bần. Mỗi lần tôi đạp xe vô chái lá, bà Hai
đều bảo tôi lên chùa lễ Phật. Tôi nói, thật lòng, với hiểu biết đơn
sơ, rằng Phật không ở trong chùa, mà ở đây nè, dưới chái lá này nè.
Bà lắc đầu nhìn tôi bảo tôi đừng nói vậy. Ôi ánh mắt!
Hình như hết mùa hè hay hết thời đi học, tôi không đi “ăn chùa”
nữa. Từ nhà tôi mà đạp xe tới bến đò qua đò rồi đạp xe tiếp, chỉ
tính thời gian đi gần hai tiếng đồng hồ. Ngồi chơi vớ vẩn, nói dăm câu chuyện ầu ơ, ngắm bông súng
cụp lại khi nắng tàn, rồi đạp xe hai tiếng về nhà. Làm bài toán
cộng trừ đơn giản cũng thấy tiêu hao năng lượng nhiều hơn calori nạp
vô. Bà Hai hay ép tôi ăn thêm vì đi xa như vậy mà ăn có nhiêu đó là
“lỗ” á. Tôi thường được mời ăn một tô khi tới nơi và một tô nữa
trước khi về. Không phải kể khổ quá khứ, mà chỉ muốn người không
trải qua thời bao cấp hiểu ý nghĩa của việc ăn hai tô cơm chùa: mỗi
nhân khẩu ở nội thành mỗi tháng được mua 9kg gạo, ở ngoại thành chỉ
có công nhân viên chức mới có tiêu chuẩn gạo và nhu yếu phẩm. Cái
chùa nhỏ đó không có tiêu chuẩn gì hết,
phật tử quanh vùng cũng vậy, tôi không biểt bà Hai kiếm đâu ra
gạo rau để nấu cho ni sư và còn lại cái gì để ăn sau khi nhường cho
tôi hai tô cơm xà bần. Tuổi trẻ vô tâm, nhưng đến lần thứ tư hay thứ
năm thì tôi hiểu. Nhiều năm sau cuộc sống dễ thở hơn tôi chở gạo rau
tìm về chùa nhỏ nhưng đi lạc hoài.
++++
Âu cũng là duyên nợ, cái người tôi quen hồi đó bỗng nhiên bắt liên
lạc lại với tôi sau hơn bốn chục năm mạnh ai nấy sống. Hai đứa hiện
tại đều già, không nói chuyện tương lai, chỉ kể chuyện quá khứ, nhắc
tới ai thì người đó đã chết hoặc đi xa không tin tức. Tôi sực nhớ bà
Hai ở chùa nhỏ, nay mà còn sống chắc cũng trên tám chục tuổi. Người
quen cũ xác nhận: bà còn sống, tám mươi mấy tuổi, vẫn ở chùa. Nhưng
do qui hoạch của thành phố cái chùa đó đã dời đi chỗ khác, cũng ở
gần nhà mới của người tôi quen.
Bà Hai còn nhớ tôi không? Hồi còn là sinh viên tôi có đi chùa nhỏ
mấy lần. Nhớ chứ sao không. Tôi suýt ứa nước mắt. Bà thử nói coi tôi
là ai? Lòng tôi rưng rưng chực “oà vỡ” nếu bà nói tôi là người đi
chùa để ăn chực cơm xà bần. Nhưng bà nhoẽn miệng cười, móm mém không
răng. Đôi mắt đã kéo mây mờ mờ không chắc
nhìn ra nhân ảnh trước mặt.
Có chăng chi tiết “sinh viên” chạm trúng nút bật lên ký ức. Em là người thích bông súng, hay ngồi
dưới chái lá chờ mặt trời lặn kể chuyện hoàng tử bé với hoa hồng.
Tôi sửng sốt ngồi trân ra nhìn bà không nói được lời nào. Em đi xe
đạp tới mồ hôi đầm đìa tóc rối xù. Tui vô trình với sư. Khách nào
tới tui cũng trình với sư, chùa của sư mà. Lần nào sư cũng bảo có
gì ăn được đem ra mời em ấy. Ở với sư từ hồi nào cho tới khi sư
tịch, không hề nghe sư nhận xét ai hay thăm hỏi người nào, cha mẹ cũng
không hề nghe sư nhắc tới. Chỉ một lần, một lần thôi, sư nói dạo này
bông súng nở nhiều mà em sinh viên không đến.
Lý do, theo lời người quen cũ, là lúc đó anh không muốn quen tôi
nữa! Tôi chưng hửng nghe anh kể: Anh là con trai cả, lúc đó đã hăm mấy
tuổi, đứa em gái kế nhỏ hơn mười mấy tháng, nghĩa là cũng hăm mấy
tuổi, tiếp theo là nửa tá em gái và em trai tuổi từ mười mấy đến
hai mươi. Mẹ anh rất sốt ruột, muốn cưới dâu cả trước để gả mấy đứa
con gái đã có người ngấp nghé, hối thúc anh đưa bạn gái về giới
thiệu. Anh quen tôi nhưng chưa ước hẹn gì cũng không dám ngỏ ý, rủ tôi
đi “ăn chùa” theo mưu kế của mẹ: hôm đó bà qua chùa giúp bà Hai nấu món
kiểm để xem mặt mũi tướng tá nàng dâu tương lai. Tôi vô tư nên không giữ
ý tứ gì cả. Lần gặp đó mẹ anh chỉ nói tôi còn trẻ con quá. Lần
sau anh rủ đến nhà ăn cơm, mẹ anh lại nấu món kiểm tôi rất thích. Tôi
ăn no cành hông mà bà vẫn tiếp thức ăn vào chén tôi liên tục. Khi tôi
về rồi bà nói với con trai là thấy tôi cũng thật thà nhưng tôi ăn
nhiều quá làm sao ai nuôi nổi. Tôi
cười đau bụng luôn. Ai cũng cười.
Thiệt tình tôi hoàn toàn không nhớ những chi tiết đó, thậm chí
không nhớ tình cảm mình đối với người quen hồi đó như thế nào, nhưng
cũng chấp nhận lời giải thích của anh với bà Hai. Hồi đó không có
điện thoại, mạng xã hội, hay tin nhắn, email, thậm chí thư gởi bưu
điện cũng bị lạc hoặc chậm nửa tháng. Cách duy nhứt anh hẹn hò tôi
là đứng ở cổng trường canh tôi ra vô, có khi gặp có khi không. Sau mấy
lần liên tiếp không gặp tôi, và vì mẹ anh cũng không ưng tôi, anh nản
chí quen cô khác. Từ bến đò vô tới chùa nhỏ vốn không có đường
chính, chỉ là những lối mòn do người dân vùng đó đi theo nhu cầu nên
quanh quẹo nhằng nhịt, anh khẳng định, không có người điạ phương dẫn
thì làm sao tôi biết đường đi tới chùa. Vậy ra tôi đã tìm cách về
nơi hò hẹn cũ mấy lần à. Người quen cũ nhìn tôi xót xa áy náy.
Phải chi... anh bỏ lửng câu nói, tôi cũng không gặng hỏi. Ra về tôi
dặn người quen cũ đó: tụi mình ra cổng chùa một lượt, người quẹo
trái người quẹo phải, đi luôn không được ngoái nhìn lại người kia nha.
(Cho tôi ngoéo lại một xíu câu chuyện kể như xong rồi này. Khi
những trận cười đã ngưng, bà Hai đã mệt, bắt đầu nói lẩn, tôi không
hỏi thêm gì được về ni sư, chỉ biết người đã dặn hoả táng nhục thể
rải tro xuống sông, không thờ cúng giỗ kỵ. Tôi đã ngẩn ngơ khi nghe bà
Hai nói ni sư nhắc đến tôi, một lần duy nhứt, bông súng nở nhiều mà
tôi không đến. Tại sao? Tôi hỏi. Không phải tại sao tôi không đến, hay
tại sao ni sư nhắc? Mà tại sao có những ngày tháng đẹp vậy, ni sư
đọc kinh trong chùa, bà Hai đi loanh hoanh mót rau củ, tôi ngồi dưới
chái lá chờ mặt trời lặn kể chuyện hoàng tử bé với hoa hồng, mà
tôi lại để mất đi vì một lý do tào lao).