Mẹ mong gả thiếp về vườn
Miệt Vườn, theo Sơn Nam trong cuốn “Văn Minh miệt vườn”, là danh từ “ gọi tổng quát những vùng đất cao
ráo, có vườn cam, vườn quýt ở ven sông Tiền, sông Hậu, thuộc tỉnh Sa Đéc, Vĩnh
Long, Mỹ Tho, Cần Thơ” Quê mẹ tôi cũng là
xứ vườn, nhưng không ở đồng bằng sông Cửu Long, mà ven một con sông thuộc hệ
thống sông Đồng Nai. Đó là một nhánh nhỏ của sông Sài Gòn, gọi là sông Búng.
Chợ ven sông gọi là chợ Búng. Theo ông bà già xưa nói thì vùng đất đó thấp,
nước ngầm “búng” lên, nêu kêu là Búng. Chứ không phải “bún”, mặc dù chợ quả
thực có bán “bún” rất ngon.
Dọc theo sông Búng
một đoạn là đường 13 cũ, cách chợ Búng vài trăm thước có cầu Bà Hai bắc qua một
con rạch tẻ ra từ sông Búng. Con đường dọc theo con rạch vô chừng vài trăm
thước thì gặp một con suối (nay đã biến thành cống xả, nhưng đó là chuyện sẽ viết
ở chỗ khác. Tôi đang nhớ về quê tôi thưở
là xứ vườn, chứ chưa thành khu công nghiệp)
Con suối này cùng
nhiều con suối khác dẫn nước từ trên “gò” xuống, góp phần nuôi dòng chảy sông
Sài Gòn. Khi cư dân hai bên bờ suối lập vườn, họ phải khai mương. Hệ thống
mương vườn gồm những mương cái cắt vào con suối và những mương con với bề rộng
và chiều sâu khác nhau cắt ngang cắt dọc đất vườn thành từng vạt khoảng ngàn
thước vuông, được thiết kế tài tình sao cho nước mương lưu thông theo thủy
triều của sông Sài Gòn. Khi triều cường, nước sông Sài Gòn đẩy ngược nước suối
vô mương vườn. Nước mương mấp mé bờ thì người ta chặn cửa mương lại. Nước sông
và phù sa tôm cá ở lại trong mương. Phù sa lắng xuống, tôm cá kiếm những hốc,
hố, đìa dưới đáy mương ẩn trú. Thủy triều xuống, người ta nhả nước mương ra
suối ra sông, hay cầm nước lại tùy nhu cầu tưới tiêu, tùy mùa khô mùa mưa.
Bảo trì hệ thống mương này là việc quan trọng
nhứt ở xứ vườn. Phải thường xuyên vét mương, đấp lớp bùn lên gốc cây như một
thứ phân bón tự nhiên, đồng thời nâng đất vườn lên theo năm tháng để có được
nền đất cao ráo. Và bởi vì ở xứ vườn, vườn nhà này tiếp vườn nhà kia, mương
vườn này nối với mương vườn nọ, nước thì chảy theo qui luật của nó. Nếu đoạn
mương nào bị trục trặc, không được vét hay bị bịt lại chẳng hạn, cả hệ thống bị
ảnh hưởng. Người làm vườn và người sống ở xứ vườn tự động liên kết với nhau,
như những thanh tre kết chung một bè, không thể chỉ biết có mình, không thể
sống mà không biết tới hàng xóm. Vì vậy căn bản của văn minh xứ vườn là sống
hài hòa với thiên nhiên và thuận thảo với xóm giềng.
Ở đồng bằng sông
Cửu Long, theo Sơn Nam thì “kỷ thuật làm
vườn khá tinh vi mà
người Miên không biết, mà người Miền Trung thiếu hoàn cảnh để áp dụng. Giữa hai
mương là liếp đất cao, mương đào càng sâu, càng rộng thì đất quăng lên bồi liếp
càng nhiều. Nước lớn chảy vào, mang phù sa theo. Phù sa lắng xuống, ở lại đáy
mương. Khi nước ngoài sông đã ròng thì nước trong mương rút trở ra; chuyển vào
là nước đục, chuyển ra là nước trong. Mớ phù sa dưới mương được quăng lên liếp
để đắp gốc cây, người làm vườn không cần mua phân bón”.
Không biết bản quyền kỷ thuật khai mương lập vườn này thuộc về miền Đông hay
miền Tây. Chắc chắn người làm vườn ở cả hai miền đã hào phóng chia sẻ tri thức
và kinh nghiệm với nhau.
Sự thông thương giữa miệt vườn miền Tây và miền
Đông khá dễ dàng và có từ lâu. Những lu hũ chum vại sản xuất ở lò gốm làng tôi từ chợ Búng xuống ghe cập bến sông Búng
rồi ra sông Sài Gòn rồi theo những đường kênh rạch chằng chịt tỏa vào những nhà
vườn ở đồng bằng sông Cửu Long. Hồi nhỏ
tôi tưởng sông Tiền sông Hậu chắc đâu đó bên kia vườn măng cụt và vườn
sầu riêng, vì ít lâu lại thấy người chèo
ghe từ Châu Đốc chở mấy hủ mắm lóc mắm sặc lên bán ở chợ Búng.
Cây trái trong vườn miền Đông và vườn miền Tây cũng
thể hiện rõ sự giao lưu giữa hai miền. Như quê
tôi ngày xưa nổi tiếng nhờ những vườn cau, măng cụt, sầu riêng, mít tố
nữ, bòn bon, chôm chôm. Trái cây miền Tây nổi tiếng nhờ cam, quít, nhãn, xoài,
dừa… Dần dần sầu riêng tiến về miền Tây, xoài tiến lên miền Đông, chôm chôm ,
nhãn mọc khắp nơi. Vườn trồng thuần một loại cây có vẻ có lợi về kinh tế hơn.
Người sống bằng vườn dám đốn hết vườn tạp để trồng toàn nhãn khi nhãn được giá,
hay trồng toàn thanh long khi trái này có triển vọng xuất khuất qua Âu Mỹ. Vườn
thuần có thể đem lại lợi nhuận cao nếu được mùa được giá. Mảnh vườn trong
trường hợp đó cũng giống như miếng ruộng trồng lúa, là phương tiện sản xuất, sử
dụng như thế nào đem lại huê lợi cao nhứt thì người ta làm. Đôi khi cái lợi gần
khiến người ta không nhìn thấy, hay bất chấp cái họa còn xa, như biến ruộng lúa
thành đầm nuôi tôm chẳng hạn. Nhưng nói chung làm vườn, về mặt kinh tế, khá hơn
làm ruộng. Nhà ở xứ vườn, dẫu không khá giả cũng có căn cơ, nề nếp, vì vườn
không phải được tạo lập trong năm bảy tháng , hay một hai năm. Thường thì phải
vài ba thế hệ vét mương bồi liếp.
Một gia đình khá giả ở xứ vườn thường duy trì cùng
lúc hai loại vườn: vườn kinh tế, trồng thuần một loại cây đang được giá trên
thị trường, với giống mới (lai hay được điều chỉnh gien) để có phẩm chất đáp
ứng yêu cầu của thị trường. Đây là nguồn thu nhập chủ lực. Vườn quanh nhà
thường là vườn tạp, với vườn kiểng ở sân trước, bụi chuối sau hè, vườn rau cạnh giàn bếp, vài cây bưởi cây
chanh, một cây vú sữa hay mít, đôi ba cây xoài, năm bảy cây dừa, còn cóc, ổi,
mận … mỗi thứ một cây. Những cây này thường là giống “xưa”, phẩm chất đặc biệt
nhưng có thể không phù hợp thị trường, chẳng hạn cây ổi sẻ trái nhỏ xíu nhưng
đặc biệt thơm và ngọt khi chín. Những thứ giống “xưa” ấy thường để trong nhà
dùng, làm quà cho con cháu, bà con, lối xóm, chứ ít khi bán, đằng nào cũng khó
cạnh tranh với giống “mới”.
Làm vườn cũng vất vả lắm. Tôi nhớ bà ngoại tôi bận bịu từ tinh mơ cho tới tối mịt. Mùa
trái chín phải canh chừng rồi kêu mối lái đến hái bán. Có khi tự bà đem trái
cây trong vườn ra chợ bán. Mùa khác phải dưỡng cây, vun bón, trừ sâu bệnh…
Nhưng không đến nỗi nhọc nhằn như làm ruộng. Cây trồng một lần rồi cho huê lợi
hàng năm trong nhiều năm. Nếu không có mười một người con như bà ngoại tôi và
sống trong thời chiến (con trai lớn lên đều đi lính) thì đời sống ở vườn của phụ
nữ được coi là thong dong nhàn hạ. Thong dong chứ không hẳn giàu có. Nhờ rộng
rãi thời giờ, và không đến nỗi khan hiếm vật chất, người xứ vườn chú trọng đời
sống lễ nghĩa và đời sống tinh thần, nâng cuộc sống lên mức thưởng ngoạn, chứ
không chỉ là mưu sinh. Thậm chí phụ nữ biến nữ công, từ thêu thùa đến nấu
nướng, thành nghệ thuật, để thi thố trong những giỗ chạp, tiệc tùng, hay trong
các cuộc “đấu xảo”, hội chợ. Trong cuốn Văn Minh Miệt Vườn Sơn Nam coi xứ vườn “tiêu biểu
cho hình thức sanh hoạt vật chất và tinh thần cao nhất ở đồng bằng sông Cửu
Long”.
Cho nên “mẹ mong gả
thiếp về vườn, ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh.”
Thanh tao hơn những số phận “gió đưa gió đẩy
về rẩy ăn còng, về sông ăn cá, về đồng ăn cua.”
Lý Lan