Giấc mơ thành phố mới


Ở xa nhờ internet  tôi biết quê mình – Bình Dương – giờ gọi là thành phố. Một  phim quảng cáo bất động sản giới thiệu Bình Dương năm 2015  là “một thành phố sang trọng”, “một trung tâm đô thị hiện đại, năng động, bền vững với đầy đủ   các loại hình phát triển phục vụ trên một triệu người”. Mô hình những khách sạn, trung tâm hội nghị và trung tâm triễn lãnh quốc tế, sân golf và trường đua ngựa, bệnh viện quốc tế và trường đại học kỷ thuật quốc tế… là những hình ảnh kỷ thuật số về một ước mơ tương lai, giống như phim hoạt hình viễn tưởng. 


Thực ra những công trình còn là dự án ấy không hề vượt xa khả năng kỷ thuật và có thể cả khả năng tài chánh. Những gì “thành phố mới” ấy sẽ có đều đã có ở nhiều thành phố khác. Những hứa hẹn về đời sống văn minh đô thị vừa có trung tâm mua sắm lẫn trung tâm văn hóa, hoạt động cộng đồng lẫn không gian giải trí xanh, là những nỗ lực mà đô thị nào cũng hướng tới. Mô hình “thành phố mới” này phô bày những gì được coi là chuẩn của một thành phố.  Nhưng ví dụ loại bớt những tính từ quảng cáo hào nhoáng, những danh từ rổn rảng, né khu “trung tâm hành chánh” phục vụ “các tập đoàn đa quốc gia”, thì thành phố còn lại gì?

Một cảm giác khó tả đeo bám  tôi sau khi xem mấy phút video đó. Những tòa nhà to lớn, đường phố rộng rãi, công viên với hồ nước phun, phố mua sắm ngầm, ga tàu điện trên không… là hiện thực ở nhiều thành phố đâu đó trên trái đất này, hà cớ gì không thể là hiện thực ở ngay quê tôi? 2015 là một tương lai không xa, cái gì cũng có thể xảy ra – hoặc không xảy ra. Bà con ở “quê” nói với  tôi bằng giọng náo nức là Bình Dương mai mốt đẹp lắm.  Tôi muốn nói là Bình Dương của mình ngày xưa đã đẹp lắm, đợi gì tới một tương lai giống với hàng ngàn đô thị trung bình ở khắp hành tinh. Nhưng nói vậy dễ gây hiểu lầm.

Bà con bây giờ đã là người thành phố, đừng nói là “quê”, khi xã ấp đã đổi thành phố phường, điện nước internet cáp truyền hình điện thoại đầy đủ, nhà cửa san sát, nhà nào có mặt tiền cũng trương bảng kinh doanh. Đi một đoạn vài trăm thước trên con đường mới tráng nhựa là có đủ tất cả dịch vụ cho mọi nhu cầu, từ café cơm phở đến cửa hàng điện thoại di động máy tính, máy ATM, và cả một cái siêu thị. Bà con bây giờ ăn mặc còn sành điệu hơn  tôi, đi “tua” đó đây cũng nhiều, những chỗ “láng e” đã từng tới, và không thể hiểu sao  tôi về “quê” bằng xe buýt, xài cái điện thoại không biết chụp hình.

Bỏ qua chuyện linh tinh,  tôi xác nhận quan điểm của  tôi là ủng hộ quê mình lên cấp thành phố. Người ta ai cũng có cái quyền chính đáng là sống một cuộc đời phong phú và tiện nghi. Người đông đất chật, tập trung ở đô thị là cách chia sẻ đỡ tốn kém hơn, vì năng lượng và tài nguyên trong trời đất dùng để phục vụ một triệu người sống tập trung đỡ hao hơn một triệu người sống rải rác. Nếu “thành phố mới” được tổ chức và quản lý tốt, có hệ thống xử lý chất thải và nước thải, thì tốt cho môi trường trái đất hơn là để mặc cho thiên hạ ăn ở tràn lan, bạ đâu hư đó. Người ở thành phố sẽ phải tuân thủ những luật lệ nguyên tắc bắt buộc của cách sống đô thị, như  không thể nghênh ngang đánh xe bò  đi giữa đường, mà phải tuân theo luật giao thông có đèn xanh đèn đỏ, nếu lột vỏ chuối liệng ra đường thì bị phạt, hoặc bị nhìn như kẻ “nhà quê”.

Nghe nói bây giờ trên trái đất, do biến đổi khí hậu, những nơi thuận tiện cho con người sinh sống ngày càng thu hẹp.  Nhiều yếu tố hiện đại khác, như toàn cầu hóa, cũng khiến cuộc sinh tồn  của cá nhân đơn độc hay cộng đồng nhỏ lẻ  trở nên khó khăn, thua thiệt. Không phải cách sống tự tại tự túc nơi thôn dã không hay, nhưng phải có nội lực thâm hậu lắm mới khả dĩ tồn tại độc lập, mới có thể kháng cự những cuồng phong trong thời mạnh vì vũ khí bạo vì tiền. Bà con  tôi đâu phải ai cũng khoái lên đời làm dân thành phố. Nhưng căn nhà nhỏ giữa mấy sào vườn của họ như sợi lông tơ bay biến ngoài khả năng nắm giữ của kẻ thấp cổ bé miệng. Thành phố được coi là môi trường nhân tạo có thể cung cấp nơi trú ngụ tương đối an toàn, nơi người ta có bầy có đàn, cùng nhau lao vào cuộc mưu sinh tiêu thụ, tự an ủi người ta sao mình vậy.  

Ở nơi xa quê, thỉnh thoảng  tôi vào bản đồ Google tìm đến làng cũ của mình qua hình chụp từ vệ tinh, mở độ lớn hết cỡ thì có thể nhìn thấy con đường làng sau khi tráng nhựa thành một vạch thẳng , hai bên chi chít những vật thể màu xám, dễ đoán được là nóc nhà.  Tôi đọ bản đồ với ký ức về làng quê mình, đoán chỗ này là nhà ông bà ngoại, vệt ngoằn ngoèo này là lối mòn đi lên gò mã, những bệt xám nham nhỡ vây quanh nghĩa địa là khu nhà trọ cất vội vàng tạm bợ cho công nhân khu công nghiệp sát bên. Và nguyên dãy đồi ngày xưa mình thả diều nay xám xịt những nhà máy.

Nếu trí nhớ không đánh lừa  tôi thì hồi nhỏ  tôi chiêm bao nhiều màu sắc lắm.  Tôi không thể nhớ lại những giấc mơ khi lên tám lên mười.  Tôi chỉ biết chắc là khoảng thời gian sau khi mẹ mất  tôi ở với bà ngoại.   Tôi hay mớ trong giấc ngủ, khi thức dậy thì kể chuyện chiêm bao cho  ngoại nghe. Ngoại ghi nhớ những lời trẻ con mớ lẫn những lời tôi kể.  Khi  tôi trưởng thành, ngoại nhắc lại là tôi thường gặp mẹ trong mơ, có khi mẹ mặc áo đỏ, có khi mặc áo hồng, gánh hàng bông ra chợ, mướp xanh một thúng, cà tím một thúng.  Bà ngoại  tôi chơn chất, nhưng đứa nhỏ tám tuổi là  tôi rất có khả năng bịa ra những giấc mơ của mình.

Căn cứ vào một đoạn nhật ký hồi  tôi mười sáu tuổi thì bầu trời trong chiêm bao của  tôi  cũng có màu sắc.  Tôi đã ghi ra giấy tâm trạng của mình trong một giấc mơ: ngây ngất trước cầu vồng, chạy mãi trên con đường đất đỏ băng qua rừng cao su xanh rì đến một giòng sông lấp lóa ánh nắng bạc.  Không biết tại sao bây giờ chỉ còn những giấc mơ xam xám. 

Bài đăng phổ biến từ blog này

Vượt qua cơn sốc

Ma không chồng

2222