Cái giàn bếp giữa nhà
Cuối năm 1984 tôi có dịp đi dọc một đoạn đường mòn Hồ Chí
Minh. Không phải con đường tráng nhựa như bây giờ. Mà là con đường mòn không dấu
người đi lại giữa núi rừng sau khi chiến
tranh chấm dứt. Ngay cả người dẫn đường, không phải một “tour guide” mà là một
cán bộ từng đi lại nhiều lần trên con đường đó thời chiến tranh, cũng ngỡ
ngàng, không chắc chỗ mình đang đi có phải là con đường từng vang danh thế giới.
Rừng núi đột ngột im phắc khi bóng tối ập xuống. Người dẫn
đường bảo tôi có gì cứ ở yên trên xe, cúi rạp người xuống nếu nghe súng nổ. Ông
ta cầm khẩu súng ở tư thể sẵng sàng nhả đạn, hướng mũi súng vào bóng tối mà chiếc
xe lao vào. Xe này là một loại xe Liên xô, nghe tài xế gọi là u-oát, giống cái
xe jeep Mỹ. Ngồi giữa người cầm lái và người dẫn đường là anh bạn nhiếp ảnh
gia, tôi và hai nhà văn khác ngồi ở băng ghế sau. Chúng tôi được tham gia chuyến
đi đường mòn Hồ Chí Minh để chuẩn bị cho số báo Tuổi Trẻ kỷ niệm 10 năm kết thúc
chiến tranh.
Hồi hộp, căng thẳng, gan mật lộn tùng phèo vì dằn xóc suốt một
thời gian dài tưởng như vô tận. Cuối cùng, người dẫn đường bảo chúng tôi thở
phào được rồi đấy. Xe đã tới đồn biên phòng Sa Thầy. Bằng cách nào tôi không biết,
hôm sau có một người dân tộc đến chào
khách và đón chúng tôi về buôn của ông. Lúc bám theo bước chân ông dẫm trên cỏ
gai lá mục tôi hỏi ông luôn miệng như đứa trẻ con thấy gì cũng lạ. Tôi không chắc
ông hiểu câu hỏi của tôi, người nói giọng miền Đông nam bộ, cũng giống như tôi
đâu có dễ gì nghe ra giọng nói trài trại của ông. Nhưng trong sổ tay của tôi
ngày đó có ghi mấy câu hỏi đáp này: “ Hỏi: Đường nào là đường mòn Hồ Chí Minh? Đáp: Đường nào đi đánh Mỹ là đường mòn Hồ Chí
Minh.” “Hỏi: Sao phải băng rừng như vầy? Không có đường về buôn sao? Đáp: Không
cần đường. Đi cách nào cũng về được nhà.”
Khi qui hoạch một thành phố, người ta kẻ đường rồi mới vẽ
nhà. Ở nơi dân tự xây nhà trước, thì sau đó cũng phải làm đường. Lớn lên nơi đô thị tôi đã đinh ninh có nhà phải có đường, dù đường lớn hay đường hẻm.
Chẳng phải nhà nào cũng có địa chỉ ghi
rõ nhà số mấy ở đường gì đó ư? Tôi không
thể hiểu sao có thể có nhà ở nơi không có đường đi tới, và sao người ta có thể
sống ở một nơi mà từ đó không có đường đi đâu cả. Tôi những tưởng mọi con đường
đều từ nhà mà khởi đi, và môt con đuường có thể đi tới bất cứ đâu, hoặc không tới
đâu, nhưng đều phải dẫn về một ngôi nhà. Ngay cả cái am / cốc / tịnh thất chơ
vơ trên núi, nơi người ta lánh tục tránh đời, cũng có đường. (Bởi vì có lần trèo
leo trên lưng núi Lớn và núi Nhỏ ở Vũng
Tàu tôi đã gặp những con đường, có cả bậc thang nhân tạo, dẫn tới những chốn tu
hành.)
Ngôi nhà giữa núi rừng mà tôi được dẫn tới được xây bằng tre
nứa, có thể có một số vật liệu bất ngờ khác, nhưng tôi không làm một chuyên khảo
về xây dựng trong chuyến đi đó, nên chỉ chú ý mấy chi tiết này về ngôi nhà: Nhà
sàn thấp, có thể bám vào một cột tre đu
lên sàn. Giữa nhà có một đống lửa đang cháy, có lẽ là cái bếp. Phía trên bếp lửa
có một cái giàn tre, để mấy vật dụng cũng bằng tre, có mấy trái bắp khô quắt, mấy
củ khoai mì cũng khô queo, và thịt sấy đen thui của con gì đó nhỏ nhỏ, còn đủ đầu
và bốn chân căng bạnh ra. Có hai phụ nữ và ba đứa trẻ ngồi chồm hỗm quanh bếp lửa,
cái giàn bếp chỉ cao hơn đầu những người ngồi một chút. Người đàn bà có vẻ già
nhứt nhìn chúng tôi đột ngột xuất hiện, không nói không rằng, chỉ hơi nhỗm người
vói tay rút mấy trái bắp khô liệng lên đống lửa. Người đàn ông đã dẫn chúng tôi
về nhà đi thẳng tới giàn bếp, gỡ xâu thịt khô xuống, cũng liệng lên bếp lửa.
Hồi ấy miếng ăn còn khan hiếm, đoàn chúng tôi phải cụ bị sẵn
lương thực, đi tới đâu thì gởi gạo cho bếp tập thể của đơn vị đón tiếp nấu
giùm, hay trao đổi sao đó, do trưởng đoàn linh động giải quyết, tôi không rõ lắm.
Nhưng lương thực đều để trên xe đậu lại ở đồn biên phòng. Không ai tính là sẽ
đi vô buôn có thể mất cả ngày cần mang theo cái dằn bụng. Không ai có kinh nghiệm
là đi bộ trong cái lạnh của núi rừng mệt và đói như thế nào. Tôi không chờ đợi
được thết đãi. Nhưng hình như tôi đã sà ngay đến bếp lửa, sưởi ké hơi ấm của
người chung quanh. Rõ ràng tôi đã hít hửi mùi bắp nướng và thịt khô nướng trong
làn khói bốc lên mờ mịt cái giàn bếp. Có lẽ tôi có áy náy hoặc lo ngại khi ngó
lên cái giàn bếp đã vơi đi thấy rõ.
Sau chuyến đi tôi có viết loáng thoáng trong một hai bài ký
về cái nhà mà cái bếp và cái giàn bếp chiếm vị trí ngay chính giữa nhà, lửa
trong bếp luôn cháy, và người ta nhường cho khách vị trí gần lửa nhứt khi ngọn
gió núi luồn qua kẻ vách bằng tre đan thưa thớt. Trọng tâm mấy bài viết đó đại
khái về những điều to tát như chiến tranh, hòa bình, đất nước, chủ nghĩa anh
hùng, v.v. Và cuộc sống đô thị với những đề tài sôi động khác phủ lấp nhiều tầng
lớp lên ký ức một chuyến đi dọc (một đoạn ngắn) dãy Trường Sơn. Tuy nhiên thỉnh
thoảng tôi chợt nhớ hình ảnh cái giàn bếp giữa ngôi nhà sàn ấy. Tôi không nhớ ngôi nhà còn có cái gì khác, hình như không
giường ghế bàn tủ gì cả, chỉ vỏn vẹn cái giàn bếp, và tất cả “tài sản” là những
cái để trên giàn bếp.
Như vậy là hoang sơ? Nghèo nàn? Không.
Từ đó đến nay tôi có dịp đi đến nhiều nơi khác nhau trên thế
giới. Một lần giữa mùa đông bắc Mỹ tôi bị kẹt giữa rừng vì bão tuyết. Những người
đồng hành lôi được tôi (đã bị tê cóng) đến một căn nhà nhỏ. Trong nhà không có
ai cả, và không có gì khác ngoài một cái bếp kiêm lò sưởi. Một đống củi để sẵn.
Bên trên cái bếp có một cái kệ để một hộp diêm quẹt, một số thực phẩm đóng hộp
và một bình nước tinh khiết. Lửa được đốt lên, đồ hộp được khui ra, nước được
đun nóng. Tôi tỉnh lại nhìn quanh. Một ngôi nhà gỗ rất nhỏ, chỉ có cái giàn bếp
(cái kệ) và tất cả “tài sản” là những thứ để trên kệ.
Cơn bão qua, những người cứu hộ đến, mang theo nước uống và
thực phẩm. Trước khi ra đi trong an toàn, những người đồng hành của tôi đi gom
củi quanh nhà chất lại một đống bên bếp, để lại trên giàn bếp những thực phẩm
lâu hư và nước tinh khiết đóng chai. Tôi hỏi nhà này của ai. Câu trả lời mơ hồ
như vầy: “Một người rất văn minh và giàu có.”