Kỷ vật


Ngày của tháng cuối năm ở xứ Bellingham vừa ngắn vừa lạnh. Mưa rỉ rả cầm chân tôi ở trong nhà cả tuần lễ nay. Năm kỉa trời mưa liền tù tì hăm mấy ngày, tôi ở trong nhà hăm mấy ngày luôn.  Theo tin trên tờ báo địa phương thì ngành mua bán lẻ đang phát đạt: trời này thiên hạ chỉ còn biết kéo vô các thương xá mà mua sắm. Hoặc ngắm hàng hóa và người đi mua sắm. Đang mùa lễ, thương xá rực rỡ đèn hoa, nườm nượp người ta, rộn ràng tiếng hát ca,  ấm áp và sáng sủa.  Nhưng sự hào nhoáng không còn sức hấp dẫn đối với một bà già như tôi nữa. Để rinh tôi ra khỏi nhà, chỉ có một cách là đưa tôi đi … ăn.
Hẳn có nhiều người có tâm trạng giống tôi. Và họ đều tự thấy mình thông minh hơn những “nạn nhân của chủ nghĩa tiêu thụ” đang bở hơi tai chạy theo những sản phẩm mới được tung ra thị trường. Mấy món “hot gift” mùa này đều là những sản phẩm được cá nhân hóa tối đa, thứ nào cũng tinh vi phức tạp, hiếm có thứ gì đơn giản và để xài chung. Hồi tháng 7 vừa rồi tôi nhận được một cái nexus mới ra lò như quà sinh nhật, chưa vọc đã tay thì xuất hiện nexus 4, nexus 10, không kể Chrome book. Còn cái nexus 7 loại 8G của tôi thì hoàn toàn biến mất trên thị trường, được thay thế bằng nexus 7 16G/ 32G vừa có wifi vừa có mobile data gì đó.  Rồi  lại thêm cái Surface của Microsoft coi bộ hay , có  bàn phím thật để đánh chữ dễ hơn, lại có chân tự đứng, mình khỏi cầm khư khư trên tay cho mỏi. Haiz. Không hấp tấp nữa, kẻo lại ôm thêm một cái mà 3 ngày sau đã lạc hậu

May mà mùa này có những ngày lễ mà hoạt động chính là ăn. Ông chồng tôi thích mời bè bạn học trò đến nhà ăn, còn tôi thích được mời đi ăn ở nhà bạn bè. Những bữa ăn tối thân mật, chứ không phải tiệc tùng đình đám. Ngoài trời tối và lạnh và ướt, tôi thấy không hạnh phúc gì hơn được ở trong căn bếp thơm mùi thức ăn, ấm áp không khí san sẻ hòa đồng giữa những người bạn.   Thường thì khách được mời vô luôn nhà bếp nơi chủ nhà đang chuẩn bị thức ăn. Ở đó, đứng hay ngồi quanh cái bàn bếp, người ta uống rượu và nói chuyện rôm rã trong khi chờ thêm khách đến đông đủ và món ăn sẵn sàng dọn ra bàn.  Bữa nay, trong  ngôi nhà trang trí nội thất rất hiện đại của bà bạn nổi bật một cái bàn bếp bằng gỗ nứt nẻ, mặt bàn loang lỗ những dấu vết khó xác định là gì. Khi mọi người đứng quanh cái bàn bếp và bắt đầu chú ý, chủ nhà hào hứng kể: 
Ông nội tôi là một nông dân, cái bàn bếp là chỗ ngồi ăn thường ngày của gia đình, mà khi có khách khứa vào những dịp lễ lạc thì cũng dọn ăn trên cái bàn đó, kê thêm bàn nếu cần, và trải lên một tấm khăn thêu. Năm đó tôi lên mười, cùng cha mẹ về nhà nội ăn lễ Giáng Sinh. Đang nhai miếng thịt gà tây thì một cái răng của tôi sút ra. Tôi đã  bị bể, gảy, rụng mấy cái răng rồi, và biết rằng chúng sẽ được thay thế bằng răng vĩnh viễn, không có gì ghê gớm cả. Nhưng đang giữa bữa ăn có đông  thực khách, tôi phải cư xử như được dạy dỗ, ngồi yên, ăn uống đàng hoàng, không chạy lung tung, không nói năng hay có cử chỉ khác thường. Tôi đã kín đáo liếc trái liếc phải, thừa lúc không ai nhìn mình, mới lừa cái răng ra đầu môi, nhanh như chớp đưa tay lên miệng lấy cái răng và cho tay ngay xuống gầm bàn nhét nó vào một kẻ nứt dưới mặt bàn. 
Nửa thế kỷ sau, ông bà nội lần lượt qua đời, con cháu về tụ tập quanh cái bàn bếp để chia gia tài. Ngoài những tài sản phân chia theo luật hay ý nguyện của người quá cố, những đồ đạc khác trong ngôi nhà sẽ thuộc về người nào muốn giữ như kỷ vật của ông bà, vì thực ra chúng không có giá trị thị trường. Người thì xin giữ cái ấm nấu nước vốn không còn dùng nhiều chục năm nay kể từ khi các loại ấm nước bằng điện tiện dụng trở nên phổ biến. Người thì muốn giữ cái ghế đong đưa trước lò sưởi để nhớ hình ảnh bà nội thưở sinh thời.
Cái bàn bếp hóa ra là vật nhiều người tranh chấp. Chẳng những vì nó do chính tay ông nội đóng, mà vì ai cũng có một kỷ niệm gắn bó với nó. Người em họ của tôi kể rằng thưở nhỏ cậu nhút nhát, luôn cảm thấy cô đơn lạc lỏng khi có đông người. Mỗi lần về nhà nội ăn lễ, mọi người ngồi vô bàn ăn, cậu lại tuột khỏi ghế chui xuống dưới gầm bàn. Ở dưới đó cậu tập nhận ra đôi chân này của ông nội, đôi chân kia của bà, đôi chân nọ của mẹ, cha… và dần dần cảm thấy yên tâm vì biết mình đang ở giữa những người thân, được những đôi chân và cái bàn che chở.
Ông chú tôi kể câu chuyện cảm động hơn: Thưở là một thanh niên (khoảng  thế kỷ trước), tự xoay sở một mình vừa kiếm sống vừa đi học, nhiều lần , rất nhiều lần, ông chẳng có đủ tiền để vô tiệm mua một cái bánh mì. Những lúc đó anh lại cỡi chiếc xe đạp từ thành phố về nhà chị dâu (là bà nội tôi). Có hôm tuyết rơi suốt quãng đường ba chục dặm. Bà bao giờ cũng đón người em chồng vào nhà, bảo ông ngồi xuống bên cái bàn bếp. Nếu không đúng bữa ăn, bà sẽ lục đục nồi chảo nấu cho ông một món gì đó rất có chất lượng. Trong khi chờ đợi, ông tự cắt một miếng bánh mì nhai ngấu nghiến. Trên bàn bếp luôn có sẵn  bánh mì bà nướng mỗi ngày bằng “men gia truyền”, một loại men bánh mì chua được nuôi trong một cái thố sành truyền lại từ đời bà của bà. Nếu bánh mì trên bàn không còn bao nhiêu thì bà sẽ nhồi thêm bột ủ men rồi nướng mẻ bánh mới. Ông chú thường ngồi bên cái bàn bếp nói chuyện, từ chiến tranh cho tới mùa màng, chờ bột nở và bánh chín, hít thở mùi bột lên men và mùi bánh mới nướng. Khi bánh ra lò, bà gói một ổ to trong tấm khăn vải đưa cho ông. Ông để nó trong cái ba lô đeo trên lưng đạp xe về thành phố, cảm nhận hơi ấm của ổ bánh truyền qua phổi qua tim mình.”
Hầu như ai từng ngồi bên cái bàn bếp ấy đều có những câu chuyện thú vị để kể. Nhưng cuối cùng bạn tôi giành được cái bàn sau khi (ngoài sức tưởng tượng của chị) tìm thấy và trưng bằng cớ cho mọi người cùng xem: cái răng sữa của chị vẫn còn nằm trong kẻ nứt mặt dưới của cái bàn! Trong lúc mọi người ồ lên ngạc nhiên, chồng chị nói nhỏ với tôi là từ khi rinh cái bàn về đặt giữa căn bếp sáng choang vật dụng hiện đại, chị liên tục mời khách đến nhà ăn tối để kể câu chuyện này và chỉ cho thực khách xem (trước khi mời họ ăn) cái răng sữa của chị kẹt trong kẻ nứt cái bàn!

Bài đăng phổ biến từ blog này

Vượt qua cơn sốc

Ma không chồng

2222