những chuyện kể của Beedle Người Hát Rong

Giống như những cái tên Tư - Thợ Mộc hay Bảy - Đưa Đò, Beedle The Bard là Beedle - Người Hát Rong. Nhà thơ dân gian này theo truyền thuyết phù thuỷ thì đã sống cách đây sáu trăm năm và đã kể những câu chuyện ngụ ý sâu sắc sau này trở thành chuyện cổ tích, chuyện dân gian, chuyện ông bà nội, ông bà ngoại, hay ba , má, kể cho con cháu nghe để dỗ chúng ngủ. Chuyện xưa nên được viết bằng cổ ngữ Runes. Và như chúng ta, những người có đọc Harry Potter, đều biết: người giỏi cổ ngữ Runes nhứt đám học sinh Hogwarts là Hermione Granger. Cô nàng này lại được thừa kế quyển sách cũ của Cụ Dumbledore, quyển "Những chuyện kể của Beedle Người Hát Rong" bằng cổ ngữ Runes, có những lời bình do chính tay cụ Dumbledore viết ngay trong sách, dưới mỗi câu chuyện. Granger đã dịch quyển sách từ cổ ngữ Runes sang tíêng Anh hiện đại. Và bà J. K. Rowling đã thông qua nhà xuất bản Trẻ cho phép tôi dịch lại cuốn sách đó sang tíêng Việt, trước cho trẻ em Việt Nam cũng được đọc ngay những chuyện mà trẻ em trên toàn thế giới đang đọc, sau để làm từ thiện: Tất cả bản quyền quyển sách này sẽ được sung vào quỹ Nhóm Cao Đẳng của Thiếu Nhi (Children's High Level Group). Hôm nay sách đã in xong, quyển sách còn nóng hổi, chắc chưa có mặt ngoài tiệm sách, nên tôi (người đầu tiên có trong tay bản dịch ra tiếng Việt, đương nhiên!) chiêu đãi bạn đọc blog này bằng trích đoạn sau đây:
CẬU PHÙ THUỶ VÀ CÁI NỒI TƯNG TƯNG
Ngày xưa có một ông già phù thuỷ tốt bụng ưa xài pháp thuật một cách hào phóng và khôn ngoan để giúp ích cho bà con lối xóm. Không muốn lộ bí mật nguồn gốc thực của quyền phép mà ông có, ông giả bộ như những thứ cao đơn hoàn tán và bùa chú chế sẵn vọt ra từ một cái vạc nhỏ mà ông gọi là cái nồi hầm may mắn của ông. Dân chúng ở chung quanh cách nhiều dặm đường đem những nỗi khốn khó của họ đến tìm ông, và ông già phù thuỷ vui vẻ khuấy cái nồi lên và mọi thứ đâu vô đó.
Ông phù thủy được mọi người kính mến này sống thọ ơi là thọ, rồi chết, để lại tất cả của cải cho người con trai duy nhứt. Tánh nết người con trai này lại rất khác với người cha nhân hậu. Theo ý cậu thì tất cả những ai không làm ra được phép thuật đều là đồ vô tích sự, và hồi trước cậu đã thường cự nự thói quen ban bố sự giúp đỡ phép thuật cho bà con lối xóm của cha cậu.
Khi cha chết rồi, cậu con trai phát hiện một cái gói nhỏ có đề tên mình được giấu bên trong cái nồi hầm cũ kỹ. Cậu mở gói ra, hy vọng có vàng, nhưng lại chỉ thấy một chiếc dép êm êm ú ù, nhưng quá nhỏ không mang được, vả lại cũng không đủ đôi. trong chiếc dép có một miếng giấy da ghi mấy chữ: “Rất mong con sẽ không bao giờ cần đến nó, con à.”
Cậu con trai cằn nhằn cái đầu già nua lẩm cẩm của cha mình rồi quăng trả chiếc dép vô cái vạc, quyết định từ nay trở đi dùng nó làm cái thùng rác.
Ngay đêm hôm đó một bà nông dân đến gõ cửa. Bà nói với cậu phù thuỷ:
“Thưa cậu, con cháu gái của tôi đang điêu đứng thảm sầu vì bị mụn cóc mọc rộ lên. Trứơc đây ba của cậu thường trộn một thứ thuốc cao dán đặc biệt trong cái nồi hầm cũ đó…”
“Biến ngay!” Cậu con trai quát. “Mắc gì tôi phải bận tâm đến mụn cóc của một con ranh hử?”
Và cậu đóng sập cánh cửa vào mặt bà cụ.
Ngay lập tức một tiếng lanh canh rổn rảng vang lên từ nhà bếp. Cậu phù thuỷ thắp sáng cây đũa phép và mở cánh cửa ra, và mèn ơi, cậu kinh ngạc nhìn cái nồi hầm cũ của cha cậu: nó đã mọc ra một cái chân duy nhứt bằng đồng, và nó đang nhảy tưng tưng tại chỗ, ngay ở giữa sàn nhà bếp, gây ra những tiếng động dễ sợ trên nền đá lát sàn.
Cậu phù thuỷ tò mò đến gần nó, nhưng vội nhảy thụt lùi lại ngay khi cậu thấy trên toàn bộ mặt nồi chi chít những mụn cóc.
“Đồ gớm ghiếc!” Cậu la lên, và cậu tìm cách, trứơc tiên, Hô biến cái nồi, rồi làm phép cạo sạch nó, và cuối cùng là tống khứ nó ra khỏi nhà. Thế nhưng mà, chẳng có bùa phép nào của cậu linh nghiệm cả, và cậu không cách nào không cho cái nồi nhảy tưng tưng theo sau cậu ra khỏi nhà bếp, và rồi theo cậu lên giường, nện lanh canh rổn rảng trên mỗi bậc cầu thang bằng gỗ.
Suốt đêm cậu phù thuỷ không tài nào ngủ vì cái nồi cũ bị mụn cóc cứ nện vô cạnh giường, và sáng hôm sau cái nồi cứ nhứt định nhảy tưng tưng theo cậu tới bàn điểm tâm. Lanh canh, lanh canh, lanh canh, cái nồi một chân bằng đồng bước đi, và cậu phù thuỷ còn chưa kịp bắt đầu ăn món cháo thì lại nghe có tiếng gõ cửa nữa.
Và một ông già đứng ngay ở ngưỡng cửa.
“Thưa cậu, con lừa già của tôi ấy mà,” Ông già giải thích. “Lạc rồi, hoặc là bị chôm mất, mụ lừa ấy, mà không có mụ thì tôi không thể nào thồ hàng ra chợ, và gia đình tôi sẽ đói tối nay.”
“Còn tôi thì đang đói bây giờ nè!” Cậu phù thuỷ rống lên, và cậu đóng sập cánh cửa vào mặt ông già.
Lanh canh, lanh canh, lanh canh, cái chân đồng độc nhứt của cái nồi hầm bước đi trên sàn, nhưng âm thanh nó phát ra lúc này hoà lẫn tíêng kêu be be chói tai của con lừa và tíêng người rên rỉ vì đói, vang vọng từ đáy nồi.
“Yên đi! Im đi!” Cậu phù thuỷ hét, nhưng tất cả quyền phép của cậu vẫn không thể khiến cái nồi mụn cóc chịu im, nó cứ nhảy tưng tưng theo sát gót chân cậu suốt cả ngày, kêu be be, rên ư ử, nện lanh canh, cho dù cậu đi đâu hay làm gì.
Buổi tối đó lại vang lên tiếng gõ thứ ba trên cánh cửa, và một người đàn bà trẻ đứng ở ngưỡng cửa khóc nức nở như thể trái tim của cô sắp vỡ tan. Cô nói:
“Đứa con nhỏ của tôi bị bệnh nặng quá. Cậu nỡ nào không giúp mẹ con tôi? Cha của cậu biểu tôi đến khi có khó khăn…”
Nhưng cậu phù thuỷ đóng sập cánh cửa vào mặt cô.
Và bây giờ cái nồi gây sự bỗng đầy ắp nước mặn chát, và nước mắt sóng sánh tràn qua mép nồi văng tứ tung trên sàn khi cái nồi nhảy tưng tưng, và kêu be be, và rên ư ử, và xì thêm nhiều mụn cóc.
Mặc dù cho đến cuối tuần chẳng còn người dân làng nào tìm đến ngôi nhà cậu phù thủy để nhờ giúp đỡ nữa, cái nồi vẫn cứ không ngừng thông báo cho cậu về tình hình bệnh tật tùm lum của nó. Nội trong vài ngày, nó không chỉ kêu be be và rên ư ử và tràn nước mắt và nhảy tưng tưng và xì mụn cóc, mà nó còn nghẹt thở, nôn oẹ, khóc lóc như một đứa con nít, rên như một con chó, ói ra phô mai thúi và sữa chua và một đống sên đói.
(còn tiếp - vui lòng chờ sách bán ra đọc tiếp hồi sau)