người ta có cần nhiều hơn thế?
“Đồ mới tốt hơn đồ cũ, như cơm mới ngon hơn cơm cũ.”
Chưa chắc. Một kẻ ưa cải ở trong tôi cố phản biện: cơm chiên
bằng cơm cũ một ngày ngon hơn cơm mới nấu đem chiên, cơm cũ để lên men ba ngày
thành cơm rượu ăn là say, và rượu mà để năm mười hai chục năm, càng cũ càng
ngon. Đồ cũ biết chế biến biết xài có khi tốt hơn đồ mới.
Cải cho vui, chứ tôi
từng trải niềm vui sướng, thích thú, sự thoải mái, sảng khoái, khi xài đồ mới,
từ mặc chiếc áo mới may, ăn rau trái mới hái trong vườn, nằm trên cái giường trải
nệm drap mới tinh, nhập tên mình vô cái máy tính “brand new”. Mới – thường cùng
nghĩa với tươi, trẻ, còn nguyên, do vậy cùng gần gũi với tốt, ngon, đẹp, tiến bộ. Và sang giàu nữa, đương nhiên, vì phải có tiền mới sắm được đồ mới. Coi quảng cáo kìa,
cái gì cũng nhấn mạnh là “mới”, kiểu dáng mới, công dụng mới, hàng mới về, chưa “bóc tem”. Cái tâm lý chuộng mới phổ biến hẳn nhờ công lớn
của kỷ nghệ quảng cáo trong xã hội tiêu thụ.
Tôi cũng từng trải
qua nỗi buồn buồn, tủi tủi khi phải xài đồ cũ. Không kể nỗi bực dọc, ngao ngán,
ngượng ngùng với những thứ đồ cũ hỏng hóc, khiếm khuyết, kém chất lượng. Cuối
thập niên 1980 tôi sắm được cái xe gắn
máy “nghĩa địa” để đi dạy, một cái xe “Cánh én 81” giá tương đương ba lượng
vàng, tính ra mắc hơn một chiếc Honda mới
toanh bây giờ. Nhưng thời đó nước mình chỉ nhập xe cũ, có xài là mừng rồi. Xe
người ta xài rồi thải ra thế nào cũng có trục trặc gì đó, tôi với ông thợ sửa xe đầu đường trầy trật
nhiều phen mới khiến nó chạy êm được mấy năm. Lúc đó nước mình bắt đầu nhập xe
mới, xe đỏ xe tím bóng loáng sáng choang, cái xe “đồ xài lại” của mình đã cũ
càng cũ thê lương, không buồn không tủi sao được?
Bây giờ tôi không
màng xe cộ nữa, dù mới dù cũ. Nhưng có lẽ vì già, hay trở thành lớp “người cũ”
chăng, mà tôi dần dần bớt phấn khích trước
những thứ mới lấp lánh, mà nhận ra mình có xu hướng bênh “đồ cũ”.
Đôi giày cũ mang quen chân, đi đường xa không bị rộp da bong gân như khi
mang đôi giày mới, Cái ghế cũ ngồi riết
nó biết tư thế của mình nên lõm đúng chỗ mình ưa tựa vào; ngồi đúng cái ghế đó
mới có cảm giác thân thuộc, thoải mái, an tâm và có cảm hứng viết. Máy tính
cũng vậy, mỗi lần máy cũ trục trặc phải sắm máy mới cứ cảm giác như ở trọ nhà ai, sống với người lạ, chẳng
biết ứng xử ra sao, đồ đạc của mình chẳng biết để chỗ nào.
Hai mươi năm trước tôi dọn từ nhà cũ trong hẻm sang “nhà mới” ở
chung cư, một căn hộ đã có người ở trước khi
tôi dọn vào, nghĩa là cũng là nhà cũ. Đã cũ còn hoang tàn: người ở trước
đó, khi dọn đi đã gỡ cả cửa kính, gạch bông, vòi nước, ván ốp tường… nói chung
là những thứ tháo gỡ được. Đó là thời ghế gỗ ở công viên cũng bị gỡ làm củi chụm
và hàng rào song sắt thì đem cân ký bán ve chai. “Nhà mới” chỉ là một không
gian trống lốc lưng chừng một chung cư. Ưu điểm duy nhứt là nó rộng rãi, có nắng
sớm rọi vào, gió chiều thổi qua, và ban đêm thấy được trăng sao trên trời.
Ba tôi và em tôi sửa sang dần cửa nẻo tường sàn, để nó
thành nhà, là nơi mọi người trong gia đình trở về, nơi trú ngụ an toàn dù ngoài
trời mưa bão.
Năm tháng qua, ba tôi
bây giờ không thể lên cầu thang để về nhà trên tầng 3 chung cư
nữa, gia đình tôi dọn về nhà cũ trong hẻm,
đã được em tôi giở ra xây lại, nên coi cũng mới. Đại
khái là dùng vật liệu mới dựng lại không gian cũ, nơi chị em chúng tôi đã sống qua tuổi thơ và tuổi trẻ. Em tôi mua giường mới cho ba, ghế mới có bánh xe
cho ba tiện xê dịch, một số đồ đạc cũng mua mới để phù hợp với nhu cầu của người
già bệnh. Mấy tháng đầu nằm trên giường ba cứ hỏi đây là đâu, chị em tôi ngày nào cũng ôn bài cho ba: “Đây là nhà
mình ở Dòn Mé Sán, đối diện trước cửa là nhà A Khòn, trong này là bếp, kia là cầu
thang lên gác.” Khi ba ngồi dậy được, chị em
tôi đẩy xe đưa ba đi vòng vòng trong xóm để ông nhớ lại nhà nào của ai.
Bây giờ ba đã nhớ ra hết, ai ở nhà nào, sinh sống ra sao, con cháu thế nào.
Ba không chịu nằm trên giường nữa, đòi đem cái ghế bên “nhà
cũ” ở chung cư qua, cái ghế mà ba vẫn quen ngồi coi tivi bao nhiêu năm. Những
thói quen cũ của ba dần dà được thiếp lập lại: Cái tivi để trước cái ghế, ba mở
tivi rồi nghoẹo đầu ngủ. Cái giường trở thành nơi bày các vật dụng thường dùng,
thành giường là nơi treo máng các bao ny lông đựng các thứ thuốc tây, thuốc bắc,
thuốc dán, dầu xoa… Áo quần thì vắt trên thành ghế hay treo trên cây mắc mùng,
trong tầm tay vói. Mền gối la liệt chung quanh, thức dậy là ba xếp mền xếp gối
lại theo một trật tự nhứt định mà đôi lần
tôi thử xếp cho gọn thì ba kêu
là tôi làm “lung tung” hết. Cuối cùng,
dường như ba đã cảm thấy đúng là mình đang ở nhà mình, khi không gian chung
quanh ba trở nên quen thuộc với những thứ cũ kỹ
ở trong một trật tự cũ xưa.
Cách đây một năm tôi
vẫn đau đáu trong lòng một giấc mơ là mua một ngôi nhà mới ở ngang mặt đường để
ba tôi đỡ cực khi lên xuống ba tầng cầu
thang chung cư. Khi ba té và phải đưa ba về nhà trong hẻm Dòn Mé sán, trong
không gian chật chội tôi đã dằn vặt mình
là cả đời không có nổi một cái nhà cho ra hồn. Nhưng tám tháng ngồi cạnh
ba tôi hằng đêm, nhìn ba tôi hồi phục dần trí nhớ, ổn định dần sức khỏe,
an cư dần trong không gian quen thuộc của mình, và thanh thản với nhịp sống đơn
giản: ăn, ngủ, tiêu, tiểu, và thở, tôi
đã nghĩ quanh đi quẩn lại có một điều: người ta có cần nhiều hơn thế?
Lý Lan