vầng trăng thổ mộ

Trong lúc soạn tập truyện ngắn mới, bỗng nhớ cái truyện viết hồi hăm mấy tuổi này.

Ngày ấy có một chuyến xe thổ mộ lộc cộc đưa Thi về Lò Chén.
Ngồi trên chiếc chiếu trải sàn xe, Thi tròn mắt nhìn con đường đất đỏ chạy lùi lại, uốn quanh co và khuất sau những vườn măng cụt âm u. Thỉnh thoảng một chòm cau cao vút vượt lên trên những ngôi nhà gỗ lợp ngói. Nối theo vườn măng cụt là vườn sầu riêng thoáng đãng, rồi đến vườn mít tố nữ lúc ấy đang mùa, mùi mít chín thơm ngào ngạt chan đầy không khí mát rượi.
Bánh xe gỗ lộc cộc lăn trên lôí mòn, lúc sụp lỗ trâu, lúc trèo lên dốc. Xe đã tới vùng gò. Đó đây vài cây mít cao lớn đứng làm ranh giới giữa xóm vườn và xóm lò. Những lò chén, lò lu, lò gốm nằm rải rác trên sườn đồi, mỗi lò to gấp mười cái nhà, hình dáng gợi Thi nhớ đến những cái mả khổng lồ. Quanh lò, lu hũ xếp thành hàng dài và cao như xây thành. Chén tô mẻ nằm ngổn ngang khắp nơi.
Thi đã về tới ngoại.
Bác đánh xe dừng ngựa bên gốc mít trong một khoảng sân lát bằng mảnh lu bể. Bà ngoại lật đật đi ra ôm Thi mà khóc. Bác đánh xe tháo dây ràng, dỡ đồ đạc của Thi xuống. Nào là rương quần áo, xe đạp ba bánh, túi đồ chơi, giỏ xách đựng bánh trái ăn dọc đường, cặp táp, và một chiếc lồng đèn bươm bướm bằng giấy kiếng đỏ. Xong, bác dắt con ngựa nâu có bờm và chùm đuôi màu hung rất đẹp về căn chòi lá phía sau bức tường bằng lu.
Nhà ngoại Thi ở ngay trên dốc thổ mộ. Bác đánh xe là ông Tư thổ mộ. Chiếc xe có hai bánh gỗ to tướng do con ngựa kéo là xe thổ mộ. Tại sao lại kêu là thổ mộ? Thì tại người ta kêu như vậy. Bà ngoại giải thích và Thi chấp nhận. Cũng như Thi phải chấp nhận cho người ta chôn mẹ Thi xuống đất và mẹ không bao giờ còn có thể ẵm bồng, dỗ dành hay dắt Thi đi học nữa. Thi cũng phải chấp nhận về quê sống với bà ngoại vì ba đi làm suốt ngày, không ai chăm nom, săn sóc Thi.
Nhưng khi chiều xuống và bóng tối dâng lên, sự tịnh mịch vắng vẻ ngự khắp xóm vườn và xóm lò. Trong nhà chỉ có ngọn đèn dầu vàng khè loe loét sáng. Ngoài vườn, trốn sau những gốc cây, con gì kêu ri ra ri rả buồn thắt ruột. Thi ngồi trên thềm nhà, tay cầm chiếc lồng đèn con bướm, thút thít khóc.
Ba đã mua cái lồng đèn này cho Thi để dỗ Thi về ngoại ăn tết trung thu. Nhưng ở đây, nhà này với nhà kia xa lút, trẻ em ăn cơm chiều xong là rửa chân đi ngủ. Chẳng còn ai rước đèn, chẳng còn ai cùng chơi, cùng múa hát. Cũng chẳng có múa lân trống đánh tùng cắc tùng xèng. Mà cũng chẳng có múa rối, chẳng có bánh trung thu, mứt kẹo. Chỉ có mỗi chếc đèn bươm bướm thôi. Thi khóc to lên, quăng chiếc lồng đèn xuống đất, bà ngoại vội lượm lên dỗ Thi:
-Con nín đi, dì Út mài khoai mì xong rồi sẽ làm bánh trôi nước nấu chè cho con ăn. Nín đi, khóc mếu cái mặt tèm nhèm, ông trăng cười kia.
Thi không thèm nhìn đến ông trăng, Thi không thích chè trôi nước. Thi chỉ muốn về nhà với mẹ thôi. Thi khóc nức nở, luôn miệng gọi “mẹ ơi”. Bà ngoại nghe Thi gọi mẹ lại khóc theo.
Ông trăng từ từ nhô lên khỏi vườn măng cụt, lăn lên gò và ngồi ngất nghểu tuốt trên ống khói lò chén. Ông ngoại vỗ tay chỉ:
-Ở, kìa kìa, ông trăng méo miệng kìa !
Thi ngước nhìn theo tay ông, nhưng thấy trăng sáng như đèn điện lại thêm nhớ nhà, khóc hu hu.
Cả nhà ngoại xúm quanh Thi, mỗi người nghĩ ra một cách để dỗ Thi.
Cậu Mười lấy cái thúng úp vô bụng, khoác cái áo rộng bên ngoài giả làm ông địa say. Vỗ bụng thùng bình bịch, vừa bước chệch choạng, vừa lè nhè hát. Ai cũng cười, nhưng Thi chỉ ngừng khóc năm phút để coi rồi lại khóc to hơn. Dì Út vắt khăn lên vai, đội nón lá giả đò quẩy gánh đi bán chè, cất giọng rao:
-Ai ăn chè trôi nước dẻo dẹo ngọt ngon thơm bùi . . .ơ!
Mọi người sốt sắng kêu chè
-Cho ba chén, cho một tô, cho một thau, một nồi . . .
Nhưng Thi vẫn không thèm ngó tới gánh chè.
Dì Chín bèn kể chuyện đời xưa:
-Công chúa đẹp vô cùng, mặc áo dệt bằng tơ nhện óng ánh ngũ sắc, đội vương miện kết bằng sao trời lấp lánh, đi trên xe song mã do hai con ngựa kéo . .
Thi vẫn sụt sịt khóc, nhưng đột nhiên ngắt lời dì:
-Xe do ngựa kéo gọi là xe thổ mộ chứ.(*)
-Ừ . . ừ phải, thế là công chúa ngôì xe thổ mộ ngao du khắp rừng . . .
Bấy giờ , ông Tư thổ mộ sang chơi, chợt nghĩ ra sáng kiến:
-Cháu có thích làm công chúa ngồi xe thổ mộ không? Bác đi thắng ngựa đây.

Ông Tư nói là làm liền. Con ngựa nâu đuôi hung được dắt ra, thắng vào càng xe. Ông Tư trải lên sàn xe chiếc chiêú hoa nhỏ, dắt xe vô giữa sân, cầm roi quơ lên múa như hát bội:
-Mời . . . (ư) công chúa (ứ . .. ừ) lên . . . xe !
Thi ngừng thút thít trố mắt nhìn. Ông Tư bồng Thi đặt lên xe, thắp chiếc lồng đèn treo trên nóc và bác nhảy phóc lên xe vung roi. “Hây”. Ngựa cất gió phi xuống dốc, bánh xe lăn trong đêm vắng lộc cộc, lộp cộp.
Con đường mòn quanh co lại chạy thụt lùi nhưng Thi không còn phân biệt vườn măng cụt với vườn sầu riêng được nữa. Ánh trăng làm cho cây nào bên đường cũng trở nên to lớn dị thường và khu vườn nào cũng biến thành khu rừng huyền ảo.
Thi mở căng mắt để nhìn chừng “khu rừng” vì có thể mụ phù thủy sai những chú lủn đi rình ở đâu đó. Bỗng tim cô bé thót lại. Một bóng đen lù lù bám sát bánh xe, khi trườn tới, khi dãn ra, khi co lại. Thi há hốc mồm ra mà không thốt được tiếng kêu, nhưng nhìn kỹ lại thì đó là cái bóng của cỗ xe dưới ánh trăang rằm.
Nhìn chăm chú một lúc Thi thích thú nhận ra, đấy là cái bóng con ngựa với chùm đuôi khi tung sang bên trái, khi tung sang bên phải. Đây là bóng ông Tư ngồi lù lù phía trước, phía sau là bóng Thi. Cô bé thử nghiêng đầu, cái bóng nghiêng đầu. Thi đưa tay vẫy, cái bóng vẫy lại. Thi cười vang, cái bóng không biết cười, nhưng có ông Tư vui vẻ cười phụ họa.
Thi giục:
-Lẹ lên ! Ông cho ngựa chạy lẹ lên, đừng để cái bóng theo kịp.
Ông Tư trìu mến nhìn Thi rôì kêu to “Hây”. Ông quật mạnh dây cương, ngựa chồm lên phi nước đại. Cái lồng đèn bươm bướm chao mạnh quá nên tắt mất ngọn đèn cầy. Nhưng hề gì, trăng mỗi lúc một sáng, trải bạc khắp nơi.
Cái bóng thật lì, cũng tăng tốc độ, bám riết theo xe.
Thi nhảy chồm chồm trên xe hối thúc luôn miệng:
-Lẹ lên ! Mau lên ! Mau lên nữa ! Cà lực ! Cà lực ! Phi ! Phi!
Cô bé hoàn toàn say mê với cuộc đuổi bắt, cười vang từng hồi khi ngỡ chạy thoát được cái bóng. Ông Tư cũng cười ha hả, vung roi quất trót trót trong không khí. Con ngựa cũng hăng lên, vừa phi vừa tung chùm đuôi dài trong gió, thỉnh thoảng hí lên một hồi dài lanh lảnh. Lục lạc ngựa leng keng hòa với vó ngựa côm cốp, tiếng cười trẻ em khanh khách lẫn tiếng bánh xe gỗ lăn lộc cộc.
Xe chạy hết con đường mòn ra đến xa lộ tráng nhựa. Ôi con ngựa mới hứng chí làm sao!
Ban ngày, xe đò, xe hơi, xe tải, xe nhà binh, xe gắn máy chạy ào ào, kêu bin bin, hụ hụ . .. thật hãi hùng. Nếu có việc phải ra lộ, con ngựa kéo cái xe gỗ nép sát lề, cất vó đi một bước lại giật mình một cái.
Ban đêm, đường vắng ngắt, thênh thang, loang loáng ánh trăng, trải lênh láng trên mặt đường nhựa, tha hồ ngựa ta tung vó, lộc cộc, leng keng, lốp cốp, hây hô, ha ha ! Ông Tư cũng cao hứng, vung roi một cái trót vô câu vọng cổ:
-Khoan! Quân đao phủ hãy dừng tay hành quyết, kẻo bây giết oan một đấng anh . .. hùng!
Ông quất một cái trót để đệm câu. Thi vỗ tay bốp bốp, ông khoái chí nháy mắt với Thi, ca tiếp. Giọng ông ca sang sảng, ngân vang niềm cảm khoái của trang dũng tướng phi ngựa suốt ngày đêm về giữa pháp trường để chuốc chung rượu vĩnh biệt Đơn Hùng Tín.
Thi thích nghe ông Tư ca nhưng cô bé chẳng hiểu tí gì về lời ca. Ông hát tiếp bài khác, cũng khó hiểu như vậy. Nào là “ . .. giữa chiến trường sa cơ thọ tiễn”. Nào là “Ở đời được mấy anh hùng . . .” Thi bèn xua tay kêu:
-Tới phiên cháu hát, ông nghe nè !
Con vỏi con voi
Có cái vòi đi trước
Hai chân trước đi trước
Hai chân sau đi sau
Cái đuôi đi sau chót !
-Hay
Ông Tư đánh roi tán thưởng. Xe chạy qua sở cao su.
Bóng lá che đường lô tôi tối, làm cái bóng bám theo xe bị lạc đâu mất. Nhưng Thi không còn chú ý đến nó nữa. Hai bác cháu đang say sưa thay phiên nhau hát, ông hát về chàng Kinh Kha qua sông Dịch mưu sát bạo Tần, đến chàng họ Lục “Giữa đường thấy chuyện bất bằng chẳng tha” . .. Còn cháu hát rằng con công hay múa, rồi con dê đi học, để con cóc ở nhà, lại có con gà bới bếp.
Đến khi xe lên dốc đồi trọc, Thi thấm mệt nằm xuống chiếu. Vừa ngả người ra, cô bé lại chồm dậy kêu:
-Trăng kìa ! Trăng rượt theo mình kìa !
-Hây !
Ông Tư giơ roi, con ngựa chồm lên phóng tới. Thi cũng co hai tay như đang cầm cương giục ngựa:
-Cà lực ! Cà lực! Phi! Phi!
Ngựa phi như bay, bánh xe lăn lộc cộc , vó câu gõ côm cốp, lục lạc kêu leng keng. Hai bác cháu khi hát vang khi cười giòn.
Vầng trăn tròn vẫn ung dung đuổi theo chiếc xe thổ mộ.
Thi ngước nhìn trăng. Lần đầu tiên Thi thấy một vầng trăng tròn như thế, to như thế và đẹp như thế. Trăng như một khuôn mặt phúc hậu đang bao dung mỉm cười với Thi. Ánh trăng tuôn xuống dịu dàng hào phóng như vỗ về. Như che chở, như hát bài ru, như cái hôn của mẹ.
Thi cảm thấy yên lòng, bảo Ông Tư cho xe chạy chầm chậm lại để chờ trăng theo với.
Chiếc xe thong thả lên dốc chùa. Vầng trăng trôi trên mái chùa cong vút, trôi qua tán cây sứ già nua đang tỏa hương thoang thoảng.
Thi nằm trong xe, mải mê nhìn trăng mà nhớ mẹ, mà tưởng như lại được nghe điệu hát ru ngọt ngào đang ngân nga trong gió, mà ngỡ như mẹ vẫn ngồi đâu đó đung đưa võng ru Thi ngủ trong ánh trăng ngà, trong nhạc ngựa đêm khuya.
Lộc cộc, leng keng, lộc cộc . . .

Cô bé ngủ say rồi. Ông Tư để con ngựa đã mệt nhoài thong thả bước đi. Ông buông cương, gài roi lên nóc xe, sửa thế nằm của cô bé, đôi mắt ông đầy trìu mến yêu thương. Cô bé nằm lắc la lắc lư theo nhịp vó câu, chốc chốc giật thót vì bánh xe sụp lỗ trâu.
Leng keng, lộc cộc, lốp cốp, lộc cộc. . .
Chiếc xe thổ mộ về lối cũ, qua vườn măng cụt, sầu riêng, mít tố nữ,về lò chén, lò lu, về dốc Thổ Mộ.


(*) “thổ mộ” là đọc trại từ “độc mã” – xe thổ một là xe chỉ có một con ngựa kéo.

Bài đăng phổ biến từ blog này

Vượt qua cơn sốc

Ma không chồng

2222