đọc lại tình nghĩa quốc văn giáo khoa thư

Hôm nay báo Tuổi Trẻ đăng nốt bài thứ 5 trong chùm bài "Lần theo hương rừng Cà Mau". Links đến các bài đó ở đây:
1. Lần theo hương rừng Cà Mau
2. Đi tìm chiếc ghe ngo
3. Theo cô Út về rừng
4. Nhứt phá sơn lâm
5. Đọc lại Tình nghĩa Quốc văn giáo khoa thư

Vui. Chỉ có điều bài cuối cùng mình viết dài quá, trang báo có giới hạn, phải cắt xén đi một mớ. Phần cắt đi cũng không ảnh hưởng nội dung toàn bài. Đăng lại bản nháp chưa biên tập ở đây để ai rảnh thì coi chơi.

Đọc lại Tình nghĩa Quốc văn giáo khoa thư

Những người đọc tác phẩm của Sơn Nam mến mộ ông chắc cũng nhiều. Những người quen biết, giao du với ông mà không đọc ông cũng không ít. Nhiều nhứt là những người không đọc, không quen, nhưng ‘biết tiếng’ ông, chủ yếu nhờ truyền hình. Đến Ấp Giữa, làng Đông Thái, hỏi thì ai cũng biết Sơn Nam vừa qua đời, nhờ ‘coi ti vi’. Nhóm chúng tôi có anh Kỳ quay phim nên dân chúng vui vẻ biết chúng tôi đến xứ đó làm gì. Chứ đi khơi khơi xưng nhà văn, chưa chắc gặp người hiểu được viết văn là làm cái gì. Xứ này, theo nhà văn Sơn Nam, “đi từ đầu làng đến cuối xóm, đố kiếm ra được cuốn sách.” Nhà thơ Nguyễn Trọng Tín muốn kiểm chứng, hỏi một người địa phương: “Ở đây có sách báo gì không?” Câu trả lời, vào tháng 10/2008: “Không. Người ở đây không ai đọc sách báo gì hết.” Nguyễn Trọng Tín kêu lên: “Làm sao xứ này sản sinh được một nhà văn kiệt xuất như Sơn Nam?” Người con lưu lạc của đồng Giữa kênh Thứ Sáu để lại cho đời 19 tác phẩm đã xuất bản và 3.000 trang chữ nghĩa chưa in thành sách. Trong số đó, người ta biết đến nhiều nhứt, dù đọc hay chưa, là truyện ngắn Tình nghĩa quốc văn giáo khoa thư.
Anh phái viên báo “Chim Trời” tìm tới xóm Cà Bây Ngọp để thu tiền báo của độc giả duy nhứt ở xứ đó. Cuộc gặp gỡ giữa anh phái viên và độc giả Trần văn Có trở thành một hội ngộ tâm hồn, mà kỷ niệm về văn chương chữ nghĩa trong quyển Quốc văn giáo khoa thư thuộc lòng từ thửơ ấu thơ là mẫu số chung để hai người xa lạ cùng chia sẻ tâm tình, suy nghĩ, cả những điều không nói ra. Ở xứ mà trâu len đến cũng chết (Cà Bây Ngọp: con trâu chết) không có trường lớp, anh Trần văn Có về đó xin giấy phép dạy học, dám công kích tờ báo “của nhà nước Lang Sa gởi xuống công sở; đi ăn giỗ thì nói chuyện Hít Le, chuyện nước Ý đánh nước Á,” mua báo Chim Trời thì “thường đọc cái chương Văn Uyển”, đọc sách Quốc văn thuộc lòng, bình luận “ Văn chương như vậy là cảm động lòng người...”, có thể coi như ‘trí thức’ ở xứ đó. Cái nhiệt tình hồn nhiên trong hoàn cảnh túng bấn kinh tế và bị kẻ cầm quyền miệt thị của anh Có khiến thầy phái viên ngậm ngùi, thấy lại chính mình “Hồi năm nào, thầy là giọt nước trong lành đó, bây giờ nó đã trôi xa, ra sông, chứa đựng rác rến, chảy hăng ra biển.” Độc giả dễ cảm nhận nỗi ngậm ngùi đó, nhất là khi người ta bắt đầu tóc hoa râm, nỗi hoài niệm tuổi thơ, kèm nỗi hoài hương, hoài cổ, dễ xúc động lòng người. Điều này dường như át đi giá trị sâu sắc của tư tưởng độc lập dân tộc trong tác phẩm đặc sắc này.
Quốc văn giáo khoa thư là sách dạy tiếng Việt La tin hoá trong trường cho học sinh người Việt khi đất nước còn là thuộc địa của Pháp. Anh Có và anh phái viên, kể cả nhà văn Sơn Nam, thuộc thế hệ lớn lên khi chữ Hán và chữ Nôm gần như suy vong cùng văn hoá Nho phong. Họ trưởng thành khi chủ nghĩa thực dân đã già cỗi, chữ Pháp và văn minh Pháp thì ở ngoài tầm tay, hoặc bị phản kháng. Tiếng Việt la tin hoá, với tư cách “quốc ngữ”, cùng những câu chuyện văn chương đạo lý được sáng tác phù hợp tâm tình hoàn cảnh người Việt thời ấy, trở thành phương tiện phát huy tinh thần dân tộc và cổ xúy văn hoá nước nhà. Tình nghĩa quốc văn giáo khoa thư là tình nghĩa đồng bào, tình nghĩa của những người cùng tiếng nói và cùng ký ức văn hoá.
Tạo tình huống hai người miền nam gặp nhau ở xứ Cà Bây Ngọp, chia sẻ kỷ niệm tuổi ấu thơ, tìm được sự cảm thông, đồng điệu, sao không để họ cùng nhắc lại những câu hát ru khi còn nằm võng, những câu hò đối đáp trên sông hay đồng ruộng đậm màu sắc phương nam đã thấm sâu vào họ thời niên thiếu? Tôi không nghĩ rằng những câu hò hát đó kém chất văn chương hay không đậm nét văn hoá bằng những bài trong Quốc văn giáo khoa thư. Sự chọn lựa của Sơn Nam chứng tỏ ông ý thức cổ xuý tinh thần thống nhất ngôn ngữ và văn hoá dân tộc. Tiếng Việt “quốc văn” là lựa chọn ngôn ngữ tư duy và sáng tác của nhà văn Sơn Nam, cũng như Việt Nam là lựa chọn ý thức quốc gia dân tộc của ông. Ông góp sức làm phong phú “quốc văn” bằng tài năng ngôn ngữ đặc sắc của một người Việt ở phương Nam, chứ không nhằm tạo ra vẻ nam bộ hay nét địa phương cho văn chương của ông. Và đây là đóng góp lớn nhất của ông vào văn học và ngôn ngữ Việt Nam.
Người ta ưa nhấn mạnh, có tính đề cao, sự am hiểu và gắn bó của nhà văn Sơn Nam với vùng đất phương nam, đặc biệt đất Sài Gòn và vùng Hậu Giang - Rạch Giá. Lần đầu tiên ông đặt chân lên đất Sài Gòn là cuối năm 1954, và ở lại đây cho đến cuối đời mình. Suốt 54 năm đó, ông đi khắp cùng đất nước, chuyến đi nào cũng nhằm nghiên cứu tìm hiểu lịch sử, văn hoá, phong thổ nước nhà. Nơi ông có điều kiện đi lại nhiều nhứt là vùng châu thổ sông Cửu Long. Nhưng ông rất ít khi về nơi chôn nhau cắt rún của mình, nơi ông còn đầy đủ đông đúc thân bằng quyến thuộc.
Từ Giồng Riềng qua Gò Quao về Thứ Sáu, đâu cũng gặp bà con của nhà văn Sơn Nam. Ông Trịnh văn Hoằng ở Gò Quao kể: trong những dịp đám giỗ, các ông chú ông bác nói là Sơn Nam được sanh ra tại Sóc Xoài, khoảng 2 tuổi mới về miệt Thứ làm khai sanh. Ngày và nơi sanh mà những người nghiên cứu, phê bình, nhà báo viết về nhà văn Sơn Nam: “11.12.1926, tại làng Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rách Giá, nay là Kiên Giang” chỉ đúng trên giấy tờ chính thức. Con gái của nhà văn Sơn Nam, bà Đào Thúy Hằng, còn giữ tờ giấy do chính tay ông nội viết là cha của bà sanh ngày 19 tháng 7 (âm lịch) Hồi nhỏ nhà văn Sơn Nam tên Lạc, người anh ruột của ông tên Khoái. Giấy khai sanh ghi tên ông là Phạm Minh Tày, khi đi kháng chiến, viết văn, ông tự đổi tên mình là Phạm Anh Tài. Bút danh Sơn Nam bắt đầu xuất hiện khi ông lên Sài Gòn làm báo, viết văn, và ông hầu như chỉ dùng bút danh này ký dưới tất cả những gì ông viết từ đó cho đến khi qua đời.
Tại sao sinh thời nhà văn Sơn Nam không hề đính chính những nhầm lẫn về lý lịch, nhân thân của mình? Trong Hồi Ký, ông chỉ ghi chung chung: Tôi chào đời năm 1926 ở vùng U Minh Hạ. Sóc Xoài hay Đông Thái, thì cũng kể như U Minh. 11 tháng 12 dương lịch hay 19 tháng 7 âm lịch nào có thay đổi được vận mệnh đời người? Những gì người ta viết và nói về ông, có lẽ ông nghĩ như ông già xay lúa nghĩ về cậu Xã Nê: “ Nhưng không sao. Năm mười năm nữa, chừng tóc bạc hoa râm cậu hiểu một mình, không cần ai cắt nghĩa” Ông là một người tài ‘trải đủ vinh nhục rồi’ nên có lòng khiêm tốn thật sự. Thậm chí có phần mặc cảm, biết giới hạn của sức mình, hiểu cái dở của đời mình, như anh phái viên báo Chim Trời trong Tình nghĩa Quốc văn giáo khoa thư. Truyện ngắn đó còn đọng lại một dư vị thấm thía trong tình người, là tình thương kính không muốn nói ra với người cùng cảnh nghèo.
Câu chuyện cuối cùng này, về tận quê nhà Sơn Nam tôi mới biết.
Từ cầu kênh Thứ Sáu vào đến Ấp Giữa đò máy chạy khoảng một tiếng đồng hồ. Ở phía cầu, gần lộ, còn thấy nhà gạch, vô sâu thấy nhiều nhà lá, hoặc chắp vá nửa lá nửa tôn, hay vài thứ vật liệu tạm bợ gì đó. Không chỉ kiểu nhà cửa sơ sài, mà toàn khung cảnh nửa hoang vu chung quanh đồng toát lên một không khí xa vắng ơ hờ, gợi cho những người thuộc thế hệ tôi cảm giác đi qua ‘vùng kinh tế mới’ ba mươi năm trước. Ngóc nhìn lên hai bờ kênh nhiều đoạn chỉ thấy lau sậy xanh rì, bông trắng phất phơ. Thỉnh thoảng trước một ngôi nhà xộc xệch có mảnh vườn rau nhỏ, dây lang dây bí bò lan man. Hiếm có cây ăn trái. Những thứ cây mọc lơ thơ quanh nhà hay dọc bờ kênh, tôi không biết tên, ít gặp ở miền Đông. Nếu có nhà văn Sơn Nam ngồi chung trên chiếc đò này, ắt là ông đã giải thích luôn miệng: đất trũng, nhiễm mặn, chỉ mọc các cây mắm, giá, không có giá trị kinh tế, xứ này ngày xưa còn nhờ cá và rừng, khai thác cạn kiệt, lần hồi tàn mạt…
Hai mươi lăm năm trước tôi theo ông đi ngang chỗ này, ông chỉ vào ngọn rạch mịt mùng nói “quê nội trong đó.” Tôi hỏi ông có muốn ghé qua nhà không. Ông im lặng để mặc cho chiếc vỏ lãi chạy tới, rồi nói khẻ “không có tiền về làm gì?”. Năm đó mẹ ông vẫn còn sống trong ngôi nhà cũ, trên tám mươi tuổi. Ít lâu sau, bà yếu quá, cùng cô con gái út trở về bên ngoại ở ấp Rạch Cũ, xã Bàn Thạch, huyện Giồng Riềng nương náu, một năm sau thì qua đời. Sơn Nam hay tin, về đến Rạch Giá, ngồi tàu đò về quê chịu tang. Tàu chạy chừng mười mấy cây số, một người ngủ nãy giờ ở đằng sau tàu chợt thức dậy nhìn thấy ông, bèn chen chân qua đám đông hành khách, tới đứng trước mặt ông. Ông thấy quen quen, hỏi “Ai vậy?” Người đó không xưng tên, mà đưa tay vạch túi áo trái của ông ra, nhìn vào không thấy tiền bạc, vạch tiếp túi áo phải, cũng không có tiền. Sơn Nam hỏi lại “Ai vậy?” Người đó vẫn không nói, lục tiếp hai túi dưới của cái áo ký giả Sơn Nam đang mặc, mò luôn hai túi quần tây, rồi nói: “Người ở Sài Gòn gì mà mặc đồ sáu bảy túi, hổng có đồng xu nào.” Sơn Nam ngồi trân người hỏi lại nữa “Ai vậy?” Người đó mới nói: “Tôi là người vừa chôn má anh. Bà mất cách đây một tuần, ở tại nhà tôi.” Người em cô cậu này thứ Tư, con của cậu Mười, tiếp tục chăm sóc phần mộ và bàn thờ mẹ nhà văn Sơn Nam cho đến giờ, trong ngôi nhà của ông, cũ kỷ đơn sơ giống như những ngôi nhà khác ở xứ này. Ông kể lại câu chuyện, giọng sâu thẳm, mắt xa xăm. Sơn Nam mất, ông nghe tin trên đài, được bà con nhắn, nhưng cũng không lên được Sài Gòn đưa đám tang anh mình.
Con người Sơn Nam, cũng như tác phẩm Sơn Nam, cũng như xứ quê U Minh của ông, không phải là một câu đố bí hiểm, nhưng là một thách thức suy tư, tìm kiếm.

Bài đăng phổ biến từ blog này

Vượt qua cơn sốc

Ma không chồng

2222